Home

PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ NGUYÊN BÀO NUÔI- NGUYÊN NHÂN, CHẨN ĐOÁN - Ung Thư - Ung Bướu

Ung thư nguyên bào nuôi là gì ?

Là loại khối u ác tính do các nguyên bào nuôi của gai rau gây nên. Nó có thể xảy ra sau sẩy thai thường, đẻ thường, nhưng hay gặp nhất là sau sẩy trứng.
Nguyên nhân hiện nay chưa rõ, nhưng người ta thấy nơi nào có tỷ lệ chửa trứng cao thì tỷ lệ nguyên bào nuôi cung cao, tỷ lệ biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi từ chửa trứng chiếm 15% - 25%.

I.  CHẨN ĐOÁN UNG THƯ NGUYÊN BÀO NUÔI

1. Về lâm sàng
Thường dựa vào:
- Tiền sử: sẩy, đẻ, nhất là sau sẩy trứng.
- Cơ năng: rong huyết bất thường và kéo dài sau khi nạo trứng, máu ra màu đỏ tươi hay đen, có khi có máu cục hoặc những mảnh tổ chức bị hoại tử.
Khi những nhân ung thư ở tử cung hay âm đạo bị vỡ thì máu chảy rất nhiều.
- Thực thể: tử cung thường to, mềm, có khi sờ được những nhân ung thư trên bề mặt tử cung.
Buồng trứng to lên, trở thành những nang hoàng tuyến có thể rất to, có khi có những nhân di căn ở âm đạo, màu tím sẫm như quả bồ quân.
- Toàn thân: xanh, thiếu máu.
2. Cận lâm sàng
- Định lượng β HCG: saư một tháng β HCG > 20.000 IU/1 hoặc lượng β HCG không giảm trong 3 tuần liền thì coi là đã bị biến chứng u nguyên bào nuôi.
- Siêu âm: có thể thấy các nhân ung thư ở lớp cơ tử cung dây chằng rộng.
- Chụp buồng tử cung: có thể thấy hình ảnh ung thư nguyên bào nuôi trong 76% các trường hợp. Thông thường người ta có thể thấy tử cung to, mềm, có hình khuyết (do nhân ung thư vào buồng tử cung), hay niêm mạc buồng tử cung ngâm thuốc không đều, nham nhỏ. Đôi khi nhân ung thư đã vỡ thuốc ngấm vào lòng của nhân vỡ đó, tạo nên hình ổ. Nếu có phối hợp nhiễm khuẩn ở buồng tử cung sẽ có hiện tượng tiết dịch và tạo hình đọng giọt. Trong một số trường hợp chửa trứng xâm nhập các nang trứng có thể nhìn thấy đươc qua chụp buồng tử cung,
- Chụp động mạch: được áp dụng trong những trường hợp nhân ung thư nằm sâu trong lớp cơ, không phát hiện được qua chụp buồng tử cung.
Với ung thư nguyên bào nuôi, có thể thấy các hình ảnh: động mạch tử cung và các mạch máu xoắn có kích thước to, có lưới tân tạo quanh các nhân ung thư, có hình thông động tĩnh mạch, có các hồ huyết V.V..


3. Chẩn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt ung thư nguyên bào nuôi với các trường hợp có thai lại sau khi nạo trứng. Khi có thai lại, lượng HCG tăng nhanh, bệnh nhân có triệu chứng nghén và không có triệu chứng rong huyết, cần chẩn đoán phân biệt bằng siêu âm. Khi nghi ngờ thì nên nạo để xác định.
4. Biến chứng
- Xuất huyết nội: do tổ chức ung thư ăn thủng tử cung (invasive mole) hay nhân ung thư nguyên bào nuôi ở dưới phúc mạc bị vỡ vào ổ bụng.
- Di căn: thường xuất hiện ở âm đạo hay ở phổi, nhất là sau nạo, chụp buồng tử cung hay cắt tử cung, do đó khi chẩn đoán xác định ung thư nguyên bào nuôi nên tìm các ổ di căn ở các vị trí thường gặp đó.
- Xuất huyết ngoại: do vỡ nhân ung thư nguyên bào nuôi ở tử cung hay âm đạo làm cho máu chảy nhiều, có thể gây sốc hay trụy tim mạch.
- Nhiễm khuẩn: do nạo đi nạo lại nhiều lần buồng tử cung.

II. PHÒNG BỆNH VÀ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ NGUYÊN BÀO NUÔI

- Để có thể phát hiện bệnh sớm, tất cả những bệnh nhân sau nạo trứng phải được theo dõi định kỳ trong hai năm đầu, chủ yếu là theo dõi lượng HCG trong nước tiểu.
Nếu xác định là ung thư nguyên bào nuôi phải điều trị bằng hoá chất chống ung thư cho bệnh nhân còn trẻ, không có di căn và phát hiện sớm (trong ba tháng đầu sau khi nạo).
- Nếu có di căn hay phát hiện muộn, bệnh nhân đã có con, nên cắt tử cung hoàn toàn và hai phần phụ, sau đó điều trị tiếp tục bằng hoá liệu pháp chống ung thư cho đến khi HCG âm tính và hết di căn, Việc điều trị đơn thuần 1 hoá chất, hay phối hợp nhiều hoá chất phụ thuộc vào bệnh nhân có nguy cơ ít, trung bình hay cao.

aaa

Các Bài Viết Cùng Chuyên Mục

-